Thứ trưởng kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên Môi trường Bùi Cách Tuyến cho biết: Trong thời gian qua, trên địa bàn cả nước có 439 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải hoàn thành việc xử lý ô nhiễm triệt để trong giai đoạn I, đến nay đã có 325 cơ sở không còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (chiếm 74%) và 114 cơ sở đang tích cực triển khai các biện pháp xử lý ô nhiễm triệt để (chiếm 26%). Continue reading “VIET NAM KHÔNG TĂNG TRƯỞNG NÓNG ĐỂ HỦY HOẠI TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG SỐNG”
Tin tức – Sự kiện
QUẬN CẦU GIẤY (HÀ NỘI): HẠN CHẾ SỬ DỤNG TÚI NILON VÌ MÔI TRƯỜNG
Continue reading “QUẬN CẦU GIẤY (HÀ NỘI): HẠN CHẾ SỬ DỤNG TÚI NILON VÌ MÔI TRƯỜNG”
O NHIEM MOI TRUONG, KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TẠI VIỆT NAM
TĂNG KIỂM SOÁT Ô NHIỄM KHU VỰC ĐÔNG DÂN NGHÈO
Continue reading “TĂNG KIỂM SOÁT Ô NHIỄM KHU VỰC ĐÔNG DÂN NGHÈO”
TĂNG RANK ALEXA ĐƠN GIẢN HIỆU QUẢ MÀ NHANH NHẤT
cách tăng rank thì có rất nhiều cách Chỉ cần biết vận dụng tất cả các cái này mình post lên cho bạn tham khảo nha Continue reading “TĂNG RANK ALEXA ĐƠN GIẢN HIỆU QUẢ MÀ NHANH NHẤT”
SIÊU CÔNG NGHỆ CHỐNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
|
NƯỚC SẠCH CHO CÁC “LÀNG UNG THƯ” Ở VIỆT NAM
Kết quả triển khai thực hiện giai đoạn 1 (năm 2011) của Dự án được đánh giá như thế nào? Đặc biệt là khả năng tìm kiếm nguồn nước hợp vệ sinh phục vụ cấp nước sinh hoạt cho các “làng ung thư”, thưa ông?
10 SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA NGÀNH TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG NĂM 2011

SUY THOÁI NGUỒN TÀI NGUYÊN TỪ ÁP LỰC PHÁT TRIỂN
|
||
Đây là các địa phương có nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học phong phú thuộc khu vực Trung Trường Sơn.
Các hoạt động kinh tế-xã hội tại Quảng Nam, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế trong 50 năm qua như phát triển thủy điện, mở rộng diện tích cây caosu, khai khoáng và săn bắt động vật, cháy rừng… đã và đang gây áp lực rất lớn đối với diện tích rừng thuộc Dự án Sáng kiến bảo tồn hành lang đa dạng sinh học nơi đây. Đặc biệt, hiện ở ba địa phương có tới 86 nhà máy thủy điện với tổng công suất 1.949 MW. Hầu hết hệ thống thủy điện đều nằm tại các huyện miền núi, nơi tập trung các loại rừng phòng hộ hoặc khu bảo tồn thiên nhiên. Các công trình xây dựng đập thủy điện dẫn tới mất rừng và ảnh hưởng đến môi trường nước làm tăng thêm nguy cơ đối với các khu rừng, không chỉ xảy ra xung quanh khu vực thi công mà cả diện tích lân cận, nơi tiến hành khảo sát địa hình, địa chất. Theo tính toán của các chuyên gia, thu hồi đất để xây dựng thủy điện đòi hỏi phải mất từ 5-7ha cho mỗi 1 MW. Như vậy, tổng số đất phải thu hồi phát triển thủy điện trong thời gian tới ở Quảng Nam sẽ là 4.900ha, Thừa Thiên-Huế 400ha và Quảng Trị 240ha. Do đó, các khu tái định cư cho các hộ dân phải di dời cần nhiều đất hơn nữa, sẽ tác động tiêu cực đến khu vực rừng gần đó, bởi phải cắt bớt diện tích rừng bổ sung cho sản xuất nông nghiệp. Một trong những áp lực khá lớn nữa đối với tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học tại khu vực Trung Trường Sơn là phát triển diện tích cây caosu đang gia tăng nhanh chóng. Trong đó Quảng Trị có 16.289ha, Thừa Thiên-Huế 8.891ha, Quảng Nam 5.996ha và đều tập trung tại các địa bàn trung du và miền núi. Theo kế hoạch phát triển đến năm 2015, các trang trại caosu sẽ mở rộng với mục tiêu 20.000ha ở Quảng Trị, 13.000ha ở Quảng Nam và 10.500ha ở Thừa Thiên-Huế. Chưa kể gần 10.000ha cây càphê sẽ hình thành tại những khu đất chưa sử dụng chạy dọc theo đường Hồ Chí Minh. Cũng trong 10 năm qua, tổng diện tích rừng bị cháy và khai thác trái phép trên địa bàn ba tỉnh này gần 3.700ha, đang thu hẹp và suy giảm nhanh chóng chất lượng rừng. Đồng thời, hoạt động khai khoáng diễn ra hầu hết mọi nơi trong các huyện của ba tỉnh thuộc Dự án Sáng kiến bảo tồn hành lang đa dạng sinh học nơi đây. Tuy nhiên điểm nóng nhất là khai thác vàng trái phép không những gây mất rừng, suy thoái cảnh quan mà còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh và trật tự xã hội, đã trở thành vấn nạn mà chính quyền địa phương khó có thể kiểm soát nổi. Vì vậy, để giảm áp lực đang đe dọa đến sự suy thoái tài nguyên và đa dạng sinh học tại ba tỉnh nói trên, trước hết các cấp quản lý tại địa phương cần rà soát, điều chỉnh lại kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội bền vững và thân thiện với môi trường; cải tiến phương thức quản lý tài nguyên thiên nhiên theo hướng duy trì ổn định hệ sinh thái, ưu tiên cao nhất cho công tác phục hồi và phát triển rừng. Mặt khác thực thi các chương trình bảo tồn quy mô lớn, đảm bảo mang lại lợi ích cho cả đa dạng sinh học và người dân địa phương./. Văn Hào (TTXVN/Vietnam+)
|
PHÁT TRIỂN NHIÊN LIỆU SINH HỌC VÌ MÔI TRƯỜNG
Trước dự báo trữ lượng dầu khí của Việt Nam chỉ đủ dùng trong 30-40 năm nữa, phát triển nhiên liệu sinh học có ý nghĩa bảo vệ môi trường, phát triển bền vững đồng thời nâng cao thu nhập của nông dân ở vùng sâu, vùng xa.
>> Thành lập Hiệp hội Nhiên liệu Sinh học VNTheo Hiệp hội Nhiên liệu Sinh học Việt Nam, nhiên liệu sinh học (biofuel) là một ngành công nghiệp rất mới mẻ ở Việt Nam nhưng bao hàm nhiều ý nghĩa quan trọng về phát triển nông thông, an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường, và hội nhập quốc tế.
Cần chính sách của Chính phủ
Dự báo trữ lượng dầu khí của Việt Nam chỉ đủ dùng trong khoảng 30-40 năm nữa. Bởi vậy nhiên liệu sinh học sẽ giúp bảo đảm trước mắt từ 5-10% lượng xăng tiêu thụ.
“Phát triển nhiên nhiệu sinh học tại Việt Nam sẽ trở thành ngành thương mại ích nước lợi nhà, là ngành chắc chắn sẽ phải đi trong tương lai”, đại diện Nhà máy Mía đường Lam Sơn chia sẻ.
Theo ông Nguyễn Phú Cường, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ – Bộ Công thương, việc sử dụng nhiên liệu sinh học giúp đảm bảo đầu ra cho nông sản, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh năng lượng, và giảm nhập siêu.
Sản xuất nhiên liệu sinh học ở trong nước sẽ giảm việc xuất khẩu thô, đồng thời tạo điều kiện ổn định sản xuất nông nghiệp và đảm bảo đời sống nông dân, đặc biệt là nông dân trồng sắn thường là nông dân nghèo ở vùng sâu, vùng xa.
Tuy nhiên khó khăn được ông Lưu Quang Thái, Chủ tịch Hiệp hội Nhiên liệu Sinh học Việt Nam, đưa ra là xăng sinh học tại Việt Nam hiện nay chưa phát triển được do va chạm các lợi ích nhóm. Vấn đề mấu chốt là Chính phủ phải đứng ra làm cha mẹ phân bổ những lợi ích đó.
“Phát triển nhiên liệu sinh học không thể nhanh và bền vững nếu không có các chính sách của Chính phủ mà điều này chỉ có Chính phủ mới làm được”, ông Thái thẳng thắn, “Nếu không có những chích sách của Chính phủ, việc phát triển nhiên liệu sinh học ở Việt Nam sẽ cực kỳ khó khăn.”
Khó khăn về giá
Thực hiện đề án của Chính phủ, từ năm 2007 đến 2011, hàng chục doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nhiên liệu sinh học bao gồm nguồn vốn từ các khu vực tư nhân, đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nhà nước. Tổng số vốn đầu tư của Hiệp hội là 500 triệu USD và đến năm 2012 năng lượng sản xuất đủ để cung cấp cho xăng E5 (xăng chứa 5% Ethanol) trên cả nước.
Đề cập đến giá, đại diện Bộ Công thương nói thực tế sản phẩm thân thiện môi trường (nhiên liệu sinh học) khó rẻ hơn xăng ô nhiễm (nhiên liệu hóa thạch-E92).
“Nhiên liệu sinh học có ý nghĩa bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, chứ nói về giá thì không thể rẻ hơn nhiên liệu hóa thạch”, ông Cường thẳng thắn.
Theo vị đại diện từ Hiệp hội, nhiên liệu sinh học phải có giá cạnh tranh thì mới sống nổi, cho nên trước mắt cần có chính sách hỗ trợ ở một giai đoạn nào đó. Còn về trung hạn thì phải có sản phẩm cạnh tranh thì mới nuôi dưỡng, phát triển lâu dài được.
Rõ ràng tiềm năng và cả lợi ích đều thấy rất rõ, tuy nhiên, việc phát triển ngành nhiên liệu sinh học ở Việt Nam vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.
“Tôi cho rằng sự ra đời của Hiệp hội là thành công, sẽ hình thành nền công nghiệp nhiên liệu sinh học tại Việt Nam.” Ông Nguyễn Phú Cường chia sẻ nhân Hiệp hội Nhiên liệu Sinh học Việt Nam chính thức được thành lập mới đây.
“Bốn năm qua Việt Nam đã đưa vài trăm người đi đào tạo ở các nước và trong nước chuyên ngành nhiên liệu sinh học. Tuy nhiên để phát triển được, Việt Nam phải có vài nghìn người thì mới đảm bảo được kế hoạch, sản lượng như Chính phủ đã đề ra. Hiệp hội Nhiên liệu Sinh học Việt Nam sẽ tham gia đào tạo nhân lực cho ngành công nghiệp sản xuất nhiên liệu sinh học”, ông Lưu Quang Thái. |
Trong đề án “Phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015 tầm nhìn đến năm 2025” được Chính phủ phê duyệt vào năm 2007 nêu rõ: “Đổi mới cơ chế, chính sách về thuế, ưu tiên vay vốn và sử dụng đất đai để hỗ trợ, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế đầu tư phát triển sản xuất nhiên liệu sinh học ở Việt Nam”. |
– Mỹ và là hai nhà sản xuất ethanol lớn nhất thế giới, chiếm tỷ lệ lần lượt là 57 và 28%. Các nước tiếp theo là Trung Quốc, Canada, Pháp, Đức, và Tây Ban Nha.
– Về biodiesel, Châu Âu vẫn đứng đầu với 53% sản lượng toàn cầu trong năm 2010. – đang áp dụng chính sách bắt buộc dùng E5 (xăng pha 5% ethanol) và B2 (dầu pha 2% biodiesel). Có bốn tỉnh đã bắt buộc dùng E8.5. – Năm 2010, Trung Quốc có chín tỉnh bắt buộc tỷ lệ pha đến E10. – đang bắt buộc dùng E3 và B2.5 – Thái Lan đã bắt buộc dùng E10 và B3 – Tại Châu Á – Thái Bình Dương, dự kiến đến năm 2020 nhu cầu ethanol vẫn cao hơn cung, do các nước đang từng bước bắt buộc pha từ 5 đến 10% vào xăng. Dự kiến tỷ lệ tiêu thụ biodiesel tại Châu Á – Thái Bình Dương thấp hơn so với ethanol. Năm 2010, biodiesel chiếm 1,6% tổng tiêu thụ dầu diesel. Tỷ lệ này sẽ tăng lên đến 3,4% vào năm 2015 và 4,7% vào năm 2020. |